Thứ nhất: Không được giao hợp vào ngày đầu tháng, giữa tháng và cuối tháng âm lịch. Phạm vào cấm kị này, con cái sinh ra sẽ bị thương tổn, còn mình thì “không còn giương lên được”. Trong mình lúc đó bị “dục hỏa thiêu trung”, nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tâm can của mình nên nước tiểu phát ra có màu đỏ hay vàng đậm. Nhiều khi mang thêm bệnh di tinh. Tuổi thọ bị giảm.
Thứ hai: Khi có sấm sét, mưa gió, đất thảm trời sầu, động đất, tránh không được giao hợp. Giao hợp thì con cái sinh ra sẽ bị câm điếc, mù lòa hay tinh thần suy nhược. Về phương diện tâm lý, thì đứa nhỏ sẽ có một tinh thần suy nhược, đa sầu, đa cảm, luôn luôn ủ dột.
Thứ ba: Không nên giao hợp khi đã ăn quá no, hay khi đương cơn say. Phạm cấm kị này, nội tạng bị tổn thương, nước tiểu màu đỏ, mặt tái xanh, lưng đau mỏi, mình mẩy phù thũng, tuổi thọ bị rút xuống rất nhanh.
Thứ tư: Không nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong. Lúc này cơ thể chưa trở về trạng thái bình thường, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt động rất phức tạp là giao hoan. Phạm điều cấm kị này thì về sau ăn uống sẽ mất ngon, bụng phình to, tâm thần luôn luôn phiền muộn, nhiều khi lơ đãng như người mất trí.
Thứ năm: Tránh giao hợp khi người đã mất sức vì mệt nhọc như: đi bộ, lao động nặng, mệt mỏi chưa phục hồi, trong mình bải hoải. Phạm cấm kị này sẽ bị mắc bệnh suyễn, miệng khô, đường tiêu hóa bị trở ngại, các cơ quan bài tiết gặp những dao động.
Thứ sáu: Không nên giao hợp liền, khi đương nói chuyện với nữ nhân mà dương cụ nổi lên. Vi phạm điều này thì dương cụ bị thương tổn, nội tạng bị suy, lỗ tai không còn thính, tinh thần bất an, ho suyễn. Nhắc lại, 6 điều cấm kị này quan trọng đến nỗi, nếu phạm phải thì sinh bệnh, chỉ có thần dược mới chữa khỏi mà thôi.
Hải Thượng Lãn Ông trong sách Vệ sinh yếu quyết cũng có lời khuyên, không nên giao hợp “trong những khi trời đất chấn động như: mưa gió sấm chớp, nắng nóng, giá rét; khi nằm giữa trời, trong đền miếu, trước tượng vị thánh hiền, trước bếp, sau giếng, trong lúc tinh thần hay sức khỏe đang mỏi mệt, hoặc tức giận sợ hãi; khi yếu đau, đi xa mới về, say rượu, ăn no, bệnh vừa mới khỏi, hoặc khi phụ nữ đang hành kinh; những hôm thức khuya hay dậy sớm sẽ phải đi xa, lúc mới đi xa về đang mệt, đều nhất thiết phải kiêng chớ nên giao hợp, giữ gìn được thì tốt”.
Những lời khuyên của người xưa vẫn là những lời vàng ngọc không nên bỏ qua.
Tố nữ kinh - "sản phẩm độc quyền" của vua chúa Trung Quốc
Nhiều đấng cửu trùng chỉ sống được 20-30 năm chỉ vì thể hiện thứ "quyền lực" ấy một cách quá ư mãnh liệt, khiến cơ thể không còn khả năng bù đắp những tổn hao quá lớn diễn ra hằng đêm. Tuy nhiên, có vị hiểu được điều này rất sớm, nên trong thời gian trị vì, đã có bên mình những danh y, cố vấn tình dục vào hàng siêu đẳng.
Tiêu biểu cho thành phần biết lo xa đó là vua Hoàng Đế nước Trung Quốc sống cách đây khoảng 4.600 năm. Ông có ba nữ cố vấn tình dục là Tố nữ, Huyền nữ và Thái nữ, luôn kề cận bên mình để trả lời mọi "thắc mắc biết hỏi ai" của nhà vua. Ngoài ra, nhà vua còn có một danh y giúp chăm sóc sức khoẻ, tương truyền chỉ riêng tuổi thọ 800 năm của ông Bành Tổ này cũng đủ trở thành một đảm bảo tuyệt vời có thể khiến nhà vua yên tâm mà thể hiện "quyền lực" hằng đêm trong cung cấm. Có lẽ nhờ vậy mà Hoàng Đế sống đến 100 tuổi (2697-2598 trước Công nguyên) và thời đại của ông đã để lại cho đời sau hai bộ "tính dục kinh" nổi tiếng là Hoàng Đế nội kinh và Tố nữ kinh.
Nếu Kamasutra chú trọng đến tư thế ái ân để mang lại sự thoả mãn toàn diện, thì Tố nữ kinh (và y học cổ đại Trung Quốc nói chung) dựa trên ý niệm âm - dương, ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) và được coi là sách kinh điển về tính dục học suốt thời kỳ phong kiến Trung Quốc. Tác phẩm này chủ yếu ghi lại những câu hỏi của nhà vua và lời giải đáp của Tố nữ, được người đời sau coi đó là những ý niệm có tính khoa học và vẫn còn có giá trị nhất định trong xã hội đương thời. Yếu tố âm dương thường được nữ cố vấn này vận dụng trong nhiều trường hợp "khúc mắc" của nhà vua. Chẳng hạn như Hoàng Đế than phiền với Tố nữ là ông cảm thấy mình khí suy nhược, khi ái ân không có sự đồng nhịp với bạn đồng hành, khiến cho tâm trạng bất an, lòng không còn vui thú. Người cố vấn này đã giải thích rằng hiện tượng trên xuất phát từ sự thiếu hoà hợp âm dương, tinh lực của người nam như lửa, của nữ như nước, nếu tinh lực của người nữ mạnh hơn nam thì cũng như nước tạt vào lửa, làm cho ngọn lửa tắt ngấm, dẫn đến hậu quả là sự ái ân có hại cho sức khoẻ và không còn thú vị nữa.Về sự hoà hợp âm dương, Tố nữ kinh còn đi xa hơn khi cho rằng trong ân ái, người nam có thể "hấp thu" tinh lực của người nữ bằng cách làm cho họ đạt đến độ cực khoái nhiều lần trong khi mình vẫn bế tinh, không làm mất đi chân khí. Sự hấp thu này tăng cường khí lực cho bộ não, khiến cho họ có thể sống trường thọ. Trong khi đó, ở giới nữ, tình trạng cực khoái một hay nhiều lần trước bạn tình không làm hao tổn chân khí của họ. Có lẽ đây cũng là một trong những lý do khiến cho các vua chúa phong kiến có nhiều phi tần cung nữ trẻ đẹp bao quanh.
Sự hấp dẫn và đi sâu vào điểm yếu ở nam giới của Tố nữ kinh đã khiến cho các vua chúa và giới công hầu trong xã hội Trung Quốc coi đó như "gia bảo" thuộc thành phần giai cấp của họ. Mặt khác, theo quan niệm thời đó, những gì đề cập đến trong tác phẩm này là "tà dâm", làm bại hoại xã hội, cho nên Tố nữ kinh bị ém nhẹm trong chốn cung đình hay giới quý tộc trong suốt hơn 2.000 năm. Nhiều bậc đế vương không hiểu thấu đáo hay hiểu sai những gì được diễn đạt trong Tố nữ kinh, khiến cho nhiều ông đã sớm rời bỏ ngai vàng, về miền cực lạc ở tuổi 20-30. Mãi đến năm 225, dưới thời nhà Hán, sách này mới được phổ biến tương đối rộng rãi trong tam cung lục viện và sau đó đi dần vào cuộc sống đời thường.
Sự hiện diện của Kamasutra trong nghiên cứu tính dục của giới khoa học đương đại là điều đã rõ. Cho đến nay, 64 tư thế ái ân do kinh này vạch ra vẫn còn là đề tài tham khảo trong các tài liệu tính dục học.
Kamasutra và Tố nữ kinh trong cuộc sống đương đại
Tố nữ kinh không được giới nghiên cứu phương Tây chú ý bằng Kamasutra, tuy vậy, những ý niệm căn bản mà nó nêu lên vẫn đang là chủ đề được các nhà tình dục học chuyên tâm nghiên cứu. Ý niệm này được tóm lược trong câu nói của Huyền nữ với Hoàng Đế: "Dương đắc âm nhi hoá dục, âm hộ dương nhi thành trưởng, âm dương tương hỗ tương thành, hỗ tương cảm ứng, tuần hoàn tương sinh" (Dương có âm mà sinh ham muốn, âm hỗ trợ dương cùng lớn lên, âm dương cùng hỗ trợ nhau mà thành, cùng nhau cảm ứng, cùng nhau tuần hoàn). Đến thời nhà Chu (770-220 trước CN), những người theo học thuyết của Lão tử tiếp tục nhấn mạnh đến thuyết âm dương trong sinh hoạt nam nữ. Họ cho rằng người phụ nữ hấp thu được khí âm một cách viên mãn, trong khi đó, người nam chỉ hấp thu dương khí trong một chừng mực nào đó. Vì thế, theo họ, trong đời sống gối chăn, trước khi xuất tinh, người nam phải tạo điều kiện cho người nữ đạt đến cực khoái nhiều lần để hấp thu tinh lực của họ. Không làm được điều này, có nghĩa là nếu người nam xuất tinh trước người nữ thì đương sự sẽ không hấp thu được tinh lực của người nữ, sức khoẻ suy kém, lâu ngày có thể dẫn đến tử vong. Cũng từ quan niệm này, những người theo học thuyết Lão tử coi hiện tượng thủ dâm là cấm kỵ và có hại cho sức khoẻ, vì không có sự hoà hợp âm dương.
Trong khi đó, y học phương Tây trước đây quan niệm rằng tinh dịch của người đàn ông sẽ được phục hồi ngay sau khi xuất tinh và năng lực sản xuất tinh dịch của cơ thể họ là vô hạn. Điều này về sau được đánh giá là một ngộ nhận. Nhiều nhà y học cho rằng sau khi cho đi nửa lít máu, cơ thể cảm thấy yếu mệt trong một đến hai ngày, cho đến khi lượng máu mất đi được tái tạo. Với tinh dịch của người nam cũng vậy, cơ thể phải tốn nhiều khí lực sau một lần xuất tinh để tái tạo tinh dịch và tái lập sự cân bằng về hormone đã mất. Những người xuất tinh một hay nhiều lần hơn nữa mỗi ngày sẽ mất dần trí nhớ và sự mẫn tiệp, vì 20% tinh dịch của họ được cấu tạo bằng dịch não tuỷ. Những phát hiện y học gần đây cho thấy hiện tượng xuất tinh thường xuyên sẽ gây ra tình trạng thiếu kẽm trầm trọng trong cơ thể, dẫn đến hậu quả lão suy sớm, kém tập trung, trầm cảm mạn tính, mất khả năng tình dục... Chính những nhận định khoa học này chứng tỏ ý niệm cơ bản về "bế tinh" và kiểm soát xuất tinh trong Tố nữ kinh đến nay vẫn còn giá trị thực tế. Nhiều "kỹ thuật" khác được đề cập tỉ mỉ trong bộ tính dục kinh trên cũng còn tính thời sự.
Nguồn: Sưu tầm
KẺ LƯU ĐÀY
0 nhận xét:
Đăng nhận xét